Lịch sử Tâm lý học nghệ thuật

1880-1950

Một trong những người tích hợp sớm nhất của tâm lý và lịch sử mỹ thuậtHeinrich Wölfflin (1864–1945), một nhà phê bình và sử học mỹ thuật, với luận văn Prolegomena zu einer Psychologie der Architektur (tạm dịch: Lời nói đầu về tâm lý học kiến trúc) (1886) nỗ lực đưa ra quan điểm rằng kiến trúc có thể được hiểu bởi tâm lý học đơn thuần (trái ngược với thuyết lịch sử tiến triển).[2]

Một nhân vật quan trọng khác trong phát triển tâm lý học mỹ thuật là Wilhelm Worringer, người đã cung cấp những minh chứng học thuyết đầu tiên cho nghệ thuật biểu hiện. Cuốn Tâm lý học mỹ thuật (1925) của Lev Vygotsky (1896 – 1934) là một nghiên cứu cơ bản khác. Richard Müller-Freienfels cũng là một nhà lý luận quan trọng đầu tiên.[cần dẫn nguồn]

Một số lượng lớn các họa sĩ của thế kỷ XX cũng bắt đầu bị ảnh hưởng bởi các tranh luận về tâm lý học, trong đó có Naum Gabo, Paul Klee, Wassily Kandinsky và phần nào có cả Josef AlbersGyörgy Kepes. Nhà thám hiểm và lý luận điện ảnh Andre Malraux cũng quan tâm tới chủ đề này và viết cuốn sách Tâm lý của nghệ thuật (1947 – 1949), sau đó đã sửa đổi và tái bản dưới tên Âm thanh của sự im lặng.

1950-nay

Mặc dù quy luật nền tảng của tâm lý học mỹ thuật lần đầu tiên được phát triển tại Đức, đã có rất nhiều người ủng hộ, trong tâm lý học, mỹ thuật hay triết học đều có những người theo đuổi các biến thể của riêng họ tại Liên Xô, Anh (Clive BellHerbert Read), Pháp (ví dụ như André Malraux, Jean-Paul Weber) và ở Mỹ.[cần dẫn nguồn]

Tại Mỹ, cơ sở triết học của tâm lý học mỹ thuật đã được củng cố và chính trị hóa trong nghiên cứu của John Dewey.[3] Cuốn Mỹ thuật cũng là Kinh nghiệm xuất bản năm 1934 là cơ sở cho sự thay đổi đáng kể trong việc giảng dạy cho dù là tại nhà trẻ hay trường đại học. Manuel Barkan, Hiệu trưởng Trường giáo dục Mỹ thuật và Nghệ thuật ứng dụng thuộc Đại Học bang Ohio cũng là một trong những nhà sư phạm bị ảnh hưởng bởi tác phẩm của Dewey đã giải thích bằng một ví dụ trong cuốn sách của ông Nền tảng của giáo dục mỹ thuật (1955) rằng giáo dục thẩm mỹ cho trẻ em chuẩn bị cho chúng cuộc sống trong một nền dân chủ phức tạp. Bản thân Dewey là người phụ trách chuyên đề trong thiết lập chương trình của Tổ chức Barnes tại Philadelphia, chương trình đã trở nên nổi tiếng vì nỗ lực tích hợp nghệ thuật với kinh nghiệm trong lớp học.[cần dẫn nguồn]

Sự phát triển của tâm lý mỹ thuật giữa năm 1950 đến 1970 cũng đồng nhất với việc mở rộng lịch sử mỹ thuật và các chương trình bảo tàng. Sự phổ biến của tâm lý Gestalt trong những năm 1950 đã bổ sung thêm sức nặng cho học thuyết này. Chuyên đề nghiên cứu mang tên Gestalt Therapy: Sự kích thích và phát triển của tính cách con người (1951), nghiên cứu cùng với Fritz Perls, Paul Goodman và Ralph Hefferline. Những tác phẩm của Rudolf Arnheim (sinh năm 1904) cũng đặc biệt gây ảnh hưởng trong giai đoạn này. Bài báo “Hướng tới tâm lý mỹ thuật” (Berkeley: Tạp chí của Đại học California) được xuất bản năm 1966. Liệu pháp mỹ thuật đã vẽ nên rất nhiều bài học về tâm lý học mỹ thuật và cố gắng thực hiện chúng trong bối cảnh thay đổi bản ngã. Trong Marketing cũng sử dụng nhiều bài học của tâm lý học nghệ thuật trong các mô hình cửa hàng cũng như trong bày trí và thiết kế của các mặt hàng thương mại.

Tâm lý học mỹ thuật nói chung đi ngược lại với các định luật phân tâm học của Freud cùng với những điều được hiểu bởi nhiều nhà phê bình tâm lý học nghệ thuật, bản thân thuyết tối giản của Sigmund Freud tin rằng quá trình sáng tạo chính là một sự thay thế cho các chứng loạn thần kinh. Ông cảm thấy nó dường như là một dạng cơ chế bảo vệ để chống lại các hiệu ứng tiêu cực của chứng loạn thần kinh, một cách chuyển từ năng lượng thành thứ gì đó mà xã hội chấp nhận, có thể giải trí và làm hài lòng những người khác. Những ghi chép của Carl Jung mặc dù đã có được sự tiếp nhận thuận lợi từ phái các nhà tâm lý học mỹ thuật cho miêu tả lạc quan của ông về vai trò của nghệ thuật và niềm tin của ông rằng những nội dung của cá nhân vô thức, đặc biệt hơn là tập thể vô thức, có thể được truy cập bởi mỹ thuật và những dạng thể hiện khác của văn hóa.  

Đến những năm 1970, tính trung tâm của tâm lý học mỹ thuật trong các học viện bắt đầu suy yếu. Các nghệ sĩ trở nên hứng thú với phân tâm học và nữ quyền, còn các kiến trúc sư lại quan tâm tới hiện tượng luận và các tác phẩm của Wittgenstien, Lyotard và Derrida. Giống như lich sử của mỹ thuật và kiến trúc đối với việc phê bình sự thiếu bối cảnh và sự ngây thơ về văn hóa của tâm lý học. Erwin Panofsky, người đã có ảnh hưởng to lớn đến định hình lịch sử của mỹ thuật tại Mỹ cho rằng các nhà sử học nên giảm tập trung vào những thứ có thể nhìn thấy được và tăng sự tập trung đó vào những thứ được nghĩ tới. Ngày nay thì tâm lý vẫn giữ một vai trò quan trọng trong lý luận mỹ thuật.

Do sự quan tâm ngày càng tăng tới học thuyết nhân cách – đặc biệt liên quan đến những nghiên cứu của Isabel Briggs Myers và Katherine Briggs (người phát triển của Myers-Briggs Type Indicator), những thuyết gia đương đại đang điều tra về mối quan hệ giữa các loại nhân cách và mỹ thuật. Patricia Dinkelaker and John Fudjack đã chỉ ra mối quan hệ giữa các loại nhân cách của các nghệ sĩ và các tác phẩm nghệ thuật, phương pháp tiếp cận với mỹ thuật giống như sự phản ánh của các chức năng sở thích được liên kết với các loại nhân cách và chức năng của nghệ thuật trong xã hội trong ánh sáng của học thuyết nhân cách.